Từ
ngày tố-khổ lên men,
Việt-Minh
tới bắt chồng
em lên đồn.
Ra
đi trong buổi hoàng-hôn,
Em lo thu-xếp bán-buôn qua ngày.
Tới
đây nào biết đông tây,
Trông
lên chỉ thấy núi mây chập-chùng.
Phần
thời gan dạ nấu-nung,
Năm
con lẻo-đẻo khốn-cùng một thân.
Ba
năm lưu-trú quê người,
Ngày
đêm vò-vỏ nào ai biết mình.
Có
khi ngồi ngắm trăng thanh,
Sau
nhà vượn hú, bên đình quạ
kêu.
Gà
hoang tao-tác lưng đèo,
Canh
khuya bó-buộc** lại về nỉ- non.
Thân hình ngày
một héo-hon,
Còn thêm công-tác dập-dồn bên lưng.
Có
khi lội suối băng rừng,
Dân
công tiếp-vận mấy từng non xanh.
Có
khi khiêng muối, tải tranh;
Khi
khu rừng đá, gập-ghềnh bờ
đê.
Có
khi trong dạ ủ-ê,
Đường
xa chân mỏi, trăm bề
khó khăn.
Phải
lên trú-sở phê-bằng***,
Đêm
đêm về thấy sao băng ngang trời.
Ăn
thời củ sắn,
củ khoai,
Ngọt
bùi chỉ có dầu lai, muối vừng.
Lưng
đèo có đám lau sưng,
Em
đi em hái ăn lần cho qua.
Cuối
ghềnh ngọn lốt mới ra,
Rau
xanh mới bén, người
xa chưa về.
Đầu
ghềnh có lá mùng tơi,
Có
chùm mè đất lả-lơi bên đường.
Dọc
ghềnh có đám rau mương,
Rau
trông, rau đợi, rau thương,
rau buồn.
Lá
vàng rơi rụng ngỏ truông,
Ba
năm rau nhớ ăn mòn tấm
thân.
Rau xa rồi lại
rau gần,
Còn chòm rau tảo,
rau tần bấy lâu.
Có
khi ăn phải bạc đầu,
Ngâm
rau vạn thọ mồi sầu chưa nguôi.
Nhớ
ai em những bùi-ngùi,
Trạnh
lòng nhớ đến giờ vui thuở
nào.
Lồng
đèn ai mắc lên cao,
Nầng
hoang ai bới ai đào dưới sâu.
Găng
này hái để cho nhau,
Mà
người năm trước, năm sau
vắng rồi.
&&&&&&&&&
(**)"Bó
buộc" là tên một loài chim thường kêu vào ban
đêm. Thời Việt
Minh, tiếng kêu âm vang nghe như " bắt quan trói
buộc" nên người ta gọi
là chim bó buộc.
(*)
:Tựa đề do gia-đình tự đặt, bài nầy ghi lại từ
ký-ức.
(***)
: Phê-bằng tức là “phê-bình” một sinh-hoạt căn-bản
của chế-độ Việt-minh, Cọng-sản, thực-hiện hàng
tuần. Mỗi người phải tự kiểm-điểm những sai sót
của mình và sai sót của những người chung quanh, hàng
xóm, bạn bè trước buổi họp do đảng tổ-chức. Chính
sinh-hoạt nầy là nguyên-nhân gây nghi-kỵ lẫn nhau trong
các tổ-chức tế-bào của xã-hội.
Xem trang sau