Con
đĩa thần
Đây là
chuyện tôi thường nghe kể,
Những
chiều thu ngồi dưới ánh trăng.
Thời xưa
có chiếc đĩa Bà Chằn,
Ở dưới
Ao-vuông, gần dãy tháp (1).
Đĩa lớn
lắm, mình dài như chiếc sạp,
Lại ăn
người, dân-chúng sợ thâu gan,
Một ngày
kia, trong xóm phải lập đàn,
Để khấn
vái đĩa thần thôi quấy-nhiễu.
Vía lên
nói “ Muốn hòa thì phải liệu,
Cau một
bàn, trầu gói sắm đôi cân”
Đĩa lại
còn bắt phải nạp mỹ-nhân,
Nàng
Thu-Liễu tuổi tròn vừa đôi tám.
Nghe vía
nói, Liễu đứng ngồi khúm núm,
Lệ đôi
hàng chan-chứa chảy trên mi.
Rồi tạ-từ
Liễu cương-quyết ra đi,
Vì nén lại
nhân-dân còn khổ-sở.
Tiếng gà
gáy, canh vừng đông chưa ló,
Từ
Ao-Vuông rộn-rã tiếng cười reo.
Cờ phướn
bay, chuyển động mấy tai hèo,
Và chiêng
trống rập-rình theo tiếng sáo.
Điã vội-vã
lên khô làm lễ cáo,
Để nhận
nàng Thu-Liễu sáng như gương.
Đĩa ra đi
chưa hết nửa chặng đường
Thì đứng
lại. Thân hình nghe bải-hoải,
Đĩa
quằn-quặi hồi lâu và tê-tái,
Đĩa chết
rồi... Đĩa chết bởi vì yêu.
Đây là
chuyện mẹ tôi kể một chiều,
Tôi không
hiểu vì sao mà đĩa chết.
Tiếng võng
đưa qua, gió về hiu-hắt.
Tiếng mẹ
ru êm-ái làm tôi quên,
Mẹ đi rồi
nay hỏi cũng không nên.
Tôi chỉ
nghe người ta thường kể lại,
Đĩa chết
vì trên chặng đường có rải,
Một lớp
dày bồ-hóng lẫn vôi Xiêm.
Đĩa chết
rồi Thu-Liễu mới ra xem.
Xem trang sau Muc
luc
|
|
|